A. Cơ sở lý luận:
I. Giải quyết tranh chấp bằng toà án:
1. Khái niệm:
Toà kinh tế là một toà chuyên trách thuộc Toà án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp trong họat động kinh doanh theo trình tự phúc thẩm hoặc có yếu tố nước ngoài
2. Đặc trưng của giải quyết bằng Tòa án:
· Phán quyết của Tòa án được bảo đảm thi hành
· Việc xét xử phải tuân thủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
· Xét xử công khai
· Nhiều cấp xét xử
· Xét xử tập thể và theo đa số
· Xét xử có hội thẩm nhân dân
3. Thẩm quyền của toà án kinh tế:
a. Những vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án:
– Các tranh chấp về hợp đồng trong kinh doanh giữa các thương nhân và đều có cùng mục đích lợi nhuận
– Các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ có mục đích lợi nhuận
– Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau, liên quan đến việc thành lập, hoạt động, tổ chức lại và giải thể công ty
b. Thẩm quyền theo các cấp tòa án:
– Toà án nhân dân cấp huyện giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm: mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; ký gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn, kỹ thuật; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa
– Toà án nhân dân cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các tranh chấp mà không thuộc thẩm quyền của cấp huyện, những tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Trong trường hợp cần thiết có thể lấy các vụ việc thuộc toà cấp huyện lên giải quyết.
c/ Thẩm quyền theo lãnh thổ
Khi tranh chấp, nguyên đơn được lựa chọn tòa án tại nơi:
– Nơi bị đơn cư trú hay làm việc
– Nơi tọa lạc bất động sản
d/ Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn
– Nếu tranh chấp liên quan đến hợp đồng, tòa án nơi thực hiện hợp đồng
– Nếu bị đơn có nhiều nơi cư trú: Tòa án theo một trong các nơi cư trú đó.
– Nếu tranh chấp liên quan đến BĐS tọa lạc ở nhiều nơi khác nhau: chọn một trong các nơi có BĐS
4. Các nguyên tắc cơ bản trong giải quyết tranh chấp kinh doanh:
– Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự
– Nguyên tắc hòa giải
– Nguyên tắc đương sự có nghĩa vụ chứng minh
– Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng
– Nguyên tắc đảm bảo quyền bảo vệ của đương sự.
5. Các giai đoạn tố tụng tại tòa án:
– Khởi kiện
– Hòa giải
– Xét xử sơ thẩm
– Xét xử phúc thẩm
– Thi hành án
II. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài:
1. Khái niệm:
Trọng tài thương mại là một tổ chức phi chính phủ. Là một tổ chức xã hội-nghề nghiệp có thẩm quyền giải quyết một số tranh chấp theo qui định của pháp luật, không phụ thuộc vào quốc tịch của các bên tranh chấp.
2. Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam:
– Cơ cấu gồm có: Chủ tịch và hai phó chủ tịch; Thư ký
– Thẩm quyền: giải quyết các tranh chấp: Khi một bên hay các bên đương sự là thể nhân hay pháp nhân nước ngoài. Nếu trước hay sau khi xảy ra tranh chấp, các bên đương sự thoả thuận đưa vụ tranh chấp ra trước trung tâm trọng tài; hoặc nếu có một điều ước quốc tế ràng buộc các bên phải đưa ra trước trung tâm trọng tài.
3. Tố tụng trọng tài:
Thủ tục bắt đầu bằng một đơn kiện do nguyên đơn gửi đến Trung tâm trọng tài:
– Chọn và chỉ định Trọng tài viên
– Công tác điều tra trước khi xét xử
– Chọn ngày xét xử
– Kết thúc xét xử
Trong quá trình tố tụng trọng tài, nếu các bên tự thỏa thuận bằng thương lượng được, thì Ủy ban trọng tài sẽ đình chỉ việc xét xử. Các bên có thể yêu cầu Trung tâm trọng tài xác nhận sự thỏa thuận đó bằng văn bản. Văn bản này có giá trị như một quyết định của Trọng tài.
4. Thi hành quyết định trọng tài:
Quyết định có hiệu lực chung thẩm, các bên phải thi hành, trừ trường hợp tòa án hủy quyết định trọng tài.
Sau thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hết hạn thi hành quyết định, nếu bên phải thi hành quyết định không tự nguyện thi hành, và cũng không có yêu cầu Tòa án hủy quyết định thì bên được thi hành quyết định có quyền làm đơn yêu cầu thi hành án cấp tỉnh giải quyết.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định trọng tài, nếu có bên không đồng ý với quyết định trọng tài thì có quyền làm đơn gửi tòa án cấp tỉnh nơi hội đồng trọng tài ra quyết định trọng tài để yêu cầu hủy quyết định trọng tài.
5. Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời:
Khi quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài có thể yêu cầu áp dụng 1 số biện pháp khẩn cấp:
– Kê biên tài sản tranh chấp
– Cấm dịch chuyển tài sản tranh chấp
– Cấm thay đổi hiện trạng tài sản tranh chấp
– Kê biên và niêm phong tài sản ở nơi gửi giữ
– Phong toả tài khoản tại ngân hàng
B. Thực tiễn:
I. Ưu khuyết điểm của giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng toà án:
1. Ưu điểm:
– Việc dựa vào cơ quan tài phán là toà án kinh tế để giải quyết các tranh chấp kinh tế có những ưu điểm nhất định. Trước hết phải kể đến, toà án là cơ quan nhân danh nhà nước để giải quyết tranh chấp, do đó phản quyết của toà án được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Cơ quan thi hành án là một cơ quan chuyên trách và có đầy đủ bộ máy, phương tiện để thi hành các bản án đã có hiệu lực pháp luật. Đăc điểm này được có thể coi là yếu tố hấp dẫn nhất khiến các bên tranh chấp thường tìm đến phương thức giải quyết tranh chấp tại toà án.
– Khi giải quyết tranh chấp tại toà án, việc giải quyết có thể qua nhiều cấp xét xử, vì thế nguyên tắc nhiều cấp xét xử bảo đảm cho quyết định của toà án được chính xác, công bằng, khách quan và đúng với pháp luật.
– Ngoài ra, ta còn thấy thẩm quyền giải quyết của toà án được mở rộng đến tất cả các ngành kinh tế. Chính vì thế, khi xảy ra tranh chấp, người ta thường nghĩ đến toà án như là nơi bao quát giải quyết mọi vấn đề.
– Với điều kiện thực tế ở Việt Nam hiện nay, chi phí cho việc giải quyết tranh chấp kinh tế tại toà án thấp hơn rất nhiều so với việc nhờ đến các tổ chức trọng tài thương mại hay trọng tài quốc tế.
2. Khuyết điểm:
Tuy toà án là cơ quan tài phán có sức mạnh cưỡng chế giúp đôi bên có thể giải quyết tranh chấp một cách triệt để, nhưng phương thức giải quyết tranh chấp này cũng bộc lộ ra nhiều hạn chế:
– Đầu tiên, khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng toà án, các bên phải nắm rõ đươc bản chất, vì việc giải quyết tranh chấp của toà án phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định mang tính hình thức của pháp luật tố tụng, và đặc điểm này đôi khi có thể gây trở ngại cho các bên tranh chấp vì tính chất của động kinh doanh, thương mại đòi hỏi mọi thủ tục phải rất linh hoạt và mềm dẻo.
– Một điều bất lợi nữa của toà án, đó là nguyên tắc xét xử công khai. Điều này xuất phát từ bản chất của hoạt động xét xử là bảo vệ pháp chế và duy trì công lý đã được pháp luật quy định, xã hội thừa nhận. Mặt khác, hoạt động xét xử công khai của toà án còn có tác dụng răn đe, cảnh cáo những hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, để giữ bí mật nhà nước hoặc bí mật nghề nghiệp theo yêu cầu chính đáng của đương sư, toà án có thể xử kín nhưng phải tuyên án công khai. Các doanh nghiệp làm ăn trên thương trường đều không muốn mang dấu đen phải ra toà để giải quyết tranh chấp, nó có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của họ, cho nên khuyết điểm này có thể coi là lớn nhất.
– Mặc dù nguyên tắc xét xử nhiều cấp đảm bảo cho quyết định của toà án là chính xác, công bằng. Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng sẽ khiến cho vụ việc có thể bị kéo dài, xử đi xử lại nhiều lần gây bất lợi cho đương sự, nhất là những tranh chấp kinh tế có giá trị lớn đòi hỏi phải giải quyết nhanh chóng, dứt điểm. Việc dây dưa, kéo dài vụ việc sẽ gây căng thẳng tâm lý, làm mất thời giờ, tiền bạc của doanh nghiệp và có khi phải bỏ lỡ một cách đáng tiếc các cơ hội kinh doanh.
– Khả năng tác động của các bên trong quá trình tố tụng rất hạn chế, đôi lúc nó không thể hiện được hết nguyện vọng của các bên tranh chấp.
II. Ưu khuyết điểm của giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng trọng tài:
1. Ưu điểm:
So với hình thức giải quyết tranh chấp bằng toà án thì giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là hình thức rất phổ biến ở các nước trên thế giới, vì so sánh với phương thức toà án, phương thức trọng tài có những ưu điểm nổi bật:
– Thứ nhất, thủ tục trọng tài đơn giản, nhanh chóng, các bên có thể chủ động về thời gian, địa điểm giải quyết tranh chấp, không trải qua nhiều cấp xét xử như ở toà án, cho nên hạn chế tốn kém về thời gian và tiền bạc cho doanh nghiệp.
– Thứ hai, khả năng chỉ định trọng tài viên thành lập Hội đồng trọng tài giải quyết vụ việc giúp các bên lựa chọn được trọng tài viên giỏi, nhiều kinh nghiệm, am hiểu sâu sắc vấn đề đang tranh chấp để từ đó họ có thể giải quyết tranh chấp nhanh chóng, chính xác.
– Thứ ba, nguyên tắc trọng tài xét xử không công khai, phần nào giúp các bên giữ được uy tín trên thương trường. Đây được coi là ưu điểm được các bên tranh chấp ưa chộng nhất.
– Thứ tư, các bên tranh chấp có khả năng tác động đến quá trình trọng tài, kiểm soát được việc cung cấp chứng cứ của mình và điều này giúp các bên giữ được bí quyết kinh doanh.
– Thứ năm. trọng tài khi giải quyết tranh chấp nhân danh ý chí của các bên, không nhân danh quyền lực tự pháp của nhà nước, nên rất phù hợp để giải quyết các tranh chấp có nhân tố nước ngoài.
2. Khuyết điểm:
Giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng phương thức trọng tài tuy được các nước trên thế giới sử dụng phổ biến, rộng rãi, nhưng trong đó vẫn còn có những khuyết điểm không thể nào tránh khỏi:
– Đầu tiên, khuỵết điểm được phát sinh do tính chất nhanh chóng của cách thức giải quyết vụ việc, trọng tài tuyên án chỉ sau một cấp xét xử duy nhất, nên đôi khi các quyết định của trọng tài là không chính xác, gây thiệt hại đối với doanh nghiệp.
– Trong thời gian trước đây, khi chưa có Pháp lệnh trọng tài năm 2003 thì tính cưỡng chế thi hành các quyết định trọng tài không cao vì trọng tài không đại diện cho quyền lực tư pháp của nhà nước.
– Việc thực hiện các quyết định của trọng tài hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức tự nguyện của các bên. Đối với các doanh nghiệp nước ngoài, uy tín của doanh nghiệp được đặt lên hàng đầu do đó việc họ tự giác thực hiện các quyết định của trọng tài khá cao. Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong nước hiện nay vẫn chưa coi trọng việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, nên vẫn chưa có ý thức tự giác.
– Trong thực tiễn tình hình nước ta hiện nay, chi phí cho việc giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng trọng tài quá lớn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có khả năng chi trả.
– Khi không được thoả thuận sử dụng trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp kinh doanh trong hợp đồng thì khi xảy ra tranh chấp, trọng tài không có thẩm quyền giải quyết ngay cả khi doanh nghiệp có ý định đó.
III. Thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh tại Việt Nam:
Việc giải quyết tranh chấp qua trọng tài thương mại tuy có nhiều ưu việt, nhưng cho tới nay ở nước ta, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa coi trọng phương thức này và số vụ giải quyết của trọng tài là quá thấp. Trong năm 2006 là năm hoạt động thành công nhất trong hoạt động của trọng tài thương mại mấy chục năm trở lại đây với hơn 30 vụ tranh chấp được giải quyết, con số đó còn quá ít so với toà án. Chỉ riêng trong 3 tháng đầu năm 2007, toà án kinh tế Hà Nội đã thụ lý khoảng 80 vụ, còn ở thành phố Hồ Chí Minh, con số này có khả năng gấp 5 lần. Nguyên nhân là do khi các thương nhân ký kết hợp đồng kinh doanh với nhau hoặc nước ngoài, họ thường chưa coi trọng vấn đề giải quyết tranh chấp, không nghĩ đến việc xảy ra tranh chấp sau này nên không thoả thuận ngay về hình thức, cơ quan giải quyết tranh chấp. Vì thế khi tranh chấp xảy ra, các thương nhân lại không thể lựa chọn trọng tài thương mại giải quyết vì trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết khi các bên đã thoả thuận từ đầu trong hợp đồng hoặc văn bản kèm theo hợp đồng. Trong khi đó, toà án lại đương nhiên có thẩm quyền giải quyết tranh chấp.(Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam – VIAC). Ngoài ra, các doanh nghiệp còn e dè đối với việc thi hành các quyết định của trọng tài, mặc dù đã có Pháp lệnh thương mại, các doanh nghiệp vẫn còn rất mơ hồ về các quy định này.
Ở nước ta, trong hợp đồng nếu trường hợp các bên thoả thuận lựa chọn hoặc trọng tài hoặc toà án thì theo Pháp lệnh trọng tài, điều khoản trọng tài đó không có hiệu lực. Tuy nhiên, ở các nước khác, người ta lại thừa nhận điều đó có hiệu lực và quyền lựa chọn thuộc về bên đi kiện. Cho thấy đó là một vấn đề trong Pháp lệnh cần được xem xét, sửa đổi.
kval.wordpress
|